Theo Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (International Agency for Research on Cancer -IARC) bệnh ung thư dẫn đầu trong các nguyên nhân gây tử vong trên toàn thế giới, ước tính 8,2 triệu người trong năm 2012, trong đó ung thư phổi, gan, dạ dày, đại tràng và ung thư vú là những nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất hàng năm. Các loại ung thư thường gặp khác nhau giữa nam và nữ; có khoảng 30% tử vong do ung thư là bởi vì 5 hành vi và yếu tố nguy cơ liên quan đến ăn uống, đó là:- Chỉ số khối cơ thể cao (BMI cao) - Ăn ít trái cây và rau củ quả. - Thiếu/ít hoạt động thể lực. - Hút thuốc lá. - Sử dụng rượu Trong đó, hút thuốc lá gây ra hơn 20% tử vong do ung thư và khoảng 70% ung thư phổi trên toàn thế giới. Có tới hơn 60% các ca ung thư mới mắc xảy ra tại châu Phi, châu Á, Nam và Trung Mỹ và tỷ lệ tử vong do ung thư tại những vùng này chiếm khoảng 70% so với toàn cầu. Tại Việt Nam, theo các số liệu thống kê của các Bệnh viện K, Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, ước tính mỗi năm ở nước ta có khoảng 100.000-150.000 bệnh nhân ung thư mới mắc và 70.000 người chết vì ung thư. Mặc dù nguyên nhân của nhiều loại ung thư còn chưa biết rõ nhưng người ta ngày càng quan tâm tới mối liên quan giữa chế độ ăn uống với ung thư. Nguyên nhân này chiếm khoảng 30% ở các nước công nghiệp hóa, khoảng 20% ở các nước đang phát triển và có xu hướng tăng lên do sự thay đổi chế độ ăn, di dân giữa các quốc gia và vai trò của các nguyên nhân khác. Tuy nhiên, có ít nhất một phần ba các ca ung thư có thể phòng ngừa được. Để phòng ngừa ung thư nên có một chiến lược lâu dài, có sự kết hợp của các cấp chính quyền, các tổ chức và đặc biệt là các cá nhân, đó là: không hút thuốc lá, hạn chế sử dụng rượu, ngăn chặn ô nhiễm môi trường, …Đối với dinh dưỡng, cần phải chú ý đến các hoạt động thể lực, điều chỉnh chế độ ăn, kiểm soát cân nặng tránh thừa cân béo phì. Có mối liên hệ giữa thừa cân và béo phì đến nhiều loại ung thư như thực quản, đại tràng, vú, nội mạc tử cung và thận. Chế độ ăn nhiều trái cây và rau có thể có tác dụng bảo vệ chống lại nhiều bệnh ung thư. Ngược lại, tiêu thụ quá nhiều thịt đỏ và có chất bảo quản có thể liên quan với tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Ngoài ra, thói quen ăn uống lành mạnh ngăn chặn sự phát triển của bệnh ung thư, đồng thời cũng sẽ giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Hoạt động thể chất thường xuyên và duy trì một trọng lượng cơ thể khỏe mạnh, cùng với một chế độ ăn uống lành mạnh, sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ mắc ung thư. Các chất tăng cường và ức chế ung thư trong chế độ ăn: Có thể nói các hiểu biết về vai trò các thành phần dinh dưỡng đặc hiệu đối với bệnh sinh ung thư còn chưa thật đầy đủ và chưa hoàn toàn thống nhất nhưng biểu hiện trội lên như sau: Rau quả: Kết luận thống nhất của các nghiên cứu dịch tễ học ung thư là trong chế độ ăn hàng ngày có đủ rau quả tươi sẽ giảm nguy cơ đối với hầu hết các loại ung thư. Có ý kiến cho rằng cơ chế của tác dụng bảo vệ đó thuộc về vai trò các chất xơ (đối với ung thư đại tràng). Gần đây nhiều bằng chứng nêu lên vai trò của acid folic, acid này cần thiết cho tổng hợp thymidin và thiếu folat gây ra các tổn thương nhiễm sắc thể. Tác dụng đó cũng có thể do vai trò các chất chống oxy hóa (ascorbat, tocophenol, carotenoid, flavonoids) trong rau quả. Protein: Nhiều nghiên cứu nêu lên mối liên quan giữa sử dụng nhiều protein, đặc biệt protein động vật đối với một số ung thư như ung thư đại tràng, vú, tụy và thận. Tuy vậy do hàm lượng protein trong khẩu phần thường đi kèm với lipid do đó chưa kết luận được vai trò độc lập của protein. Có mối liên quan giữa nguy cơ ung thư đại tràng với sử dụng các loại thịt màu đỏ giàu chất béo nhưng không thấy mối liên quan này với việc tiêu thụ thịt gà ít béo hoặc cá. Chất béo: Nhiều công trình nêu lên mối liên quan giữa chất béo động vật đặc biệt các acid béo no với ung thư đại tràng. Chất béo trong khẩu phần cũng liên quan với ung thư tuyến tiền liệt. Năng lượng: Chế độ ăn giàu năng lượng, đậm độ năng lượng cao có liên quan tới bệnh ung thư tại nhiều địa điểm trong khi đó tăng cường hoạt động thể lực, tiêu hao năng lượng cao lại làm giảm các nguy cơ đó. Các kết luận về đường và glucid còn chưa thống nhất. Rượu: Rượu là một yếu tố nguy cơ đối với nhiều loại bệnh ung thư đặc biệt là đối với các cơ quan tiếp xúc với rượu như hốc miệng, thực quản và cả các cơ quan khác như đại tràng, vú, gan. Rượu tác dụng hợp lực với nhân tố khác như thuốc lá làm tăng nguy cơ gây ung thư vòm miệng và thực quản, với aflatoxin B1 hay viêm gan B trong ung thư gan. Muối: Các nghiên cứu ở Nhật Bản đã chứng minh có mối liên quan giữa sử dụng nhiều muối hoặc các thức ăn ướp muối (cá muối, thịt muối) với ung thư dạ dày. Một số chất có hoạt tính chống ung thư trong thực phẩm: - Các hợp chất alkyl có ở hành, tỏi có tác dụng ức chế sinh khối u trong ống nghiệm và giảm mắc ung thư dạ dày trong các nghiên cứu dịch tễ học. Các hợp chất hữu cơ isothiocyanat có nhiều ở các loại rau họ cải bắp có tác dụng ức chế hoạt tính gây ung thư. - Các flavonoid bao gồm flavon, flavonol và isoflavon là nhóm chất chống oxy hóa hữu cơ nguồn thực vật có thế có tác dụng chống ung thư. Flavon ở quả chanh có tác dụng ức chế sự phát triển các tế bào ác tính trong môi trường nuôi cấy. Quercetin ở quả táo là loại flavon được nghiên cứu nhiều, có tính chất ức chế phát triển các tế bào ác tính. - Lá chè có các polyphenol bao gồm catechin và flavonol, quinol được tạo thành khi chè bị oxy hóa. Các thành phần đó có tác dụng ức chế sự hình thành nitrosamine trong ống nghiệm. Nhiều nghiên cứu quan sát cho thấy sử dụng chè liên quan tới giảm tỷ lệ mắc ung thư. - Đậu tương có nhiều isoflavon có tác dụng ức chế phát triển các khối u ở vú. Các chế độ ăn nhiều rau và quả có thể dự phòng 20% trường hợp ung thư và hạn chế uống rượu có thể giảm thêm 20% ung thư khác. Số lượt đọc:
20108
-
Cập nhật lần cuối:
12/12/2016 07:31:08 AM |