Unknown
| | Đăng ký:
21/11/2024 Tham gia:
21/11/2024 Điểm:
0 Bài:
0 |
Sinh lý quá trình đông cầm máu
1.
Đại cương:
Đông cầm máu là sự thay đổi tình
trạng vật lý của máu để chuyển một protein hòa tan thành một gen rắn là sợi
huyết nhằm mục đích lấp chỗ tổn thương thành mạch hạn chế mất máu đồng thời
cũng tham gia duy trì tình trạng lỏng của máu.
Quá trình đông cầm máu bao gồm các
tác động qua lại mật thiết giữa ba thành phần: thành mạch, các tế bào máu và
các protein huyết tương họat động dưới hình thức phản ứng men. Quá trình này
hoạt động theo yêu cầu và bị điều hòa bởi các yếu tố thần kinh và thể dịch.
Trong cơ thể luôn có sự cân bằng giữa
hai hệ thống: làm đông máu và chống lại quá trình đông máu. Một hệ thống mang
tính bảo vệ cơ thể tránh chảy máu, một hệ thống đóng vai trò gìn giữ lưu thông
lòng mạch để luôn bảo đảm tuần hoàn duy trì sự sống. Mất cân bằng hai hệ này sẽ
dẫn đến hậu quả làm tắc mạch hoặc chảy máu.
2.
Các yếu tố tham gia hoạt hóa đông cầm
máu:
2.1.
Co mạch:
Khi mạch máu bị tổn thương, các yếu
tố thần kinh và thể dịch sẽ tác động làm co mạch làm giảm khẩu kính mạch máu và
giảm lưu lượng dòng chảy tạo điều kiện cho tiểu cầu dính vào lớp dưới nội mạc.
2.2.
Nội mạc và lớp dưới nội mạc:
2.2.1. Tế bào nội mạc:
Các tế bào nội mạc có vai trò rất
quan trọng trong việc chống tạo huyết khối cũng như tạo cân bằng giữa hệ thống
các yếu tố đông máu huyết tương và hệ thống các chất hoạt hóa đông cầm máu nhờ
một số đặc tính và cấu trúc sau:
-
Các
tế bào nội mạc có một lớp glycocalyx trên bề mặt, trong đó chứa heparin sunphat
(có vai trò chống đông máu) và glycosaminoglycan (có khả năng hoạt hóa
antithrombinIII cũng là chất ức chế đông máu mạnh)
-
Tế
bào nội mạc tham gia vào quá trình điều hòa vận mạch nhờ chuyển hóa và bất hoạt
các peptid hoạt mạch.
-
Nội
mạc chứa men prostacyclin synthetase có tác dụng chuyển acid arachidonic thành
prostaglandin, một chất ức chế tiểu cầu rất mạnh.
-
Tế
bào nội mạc chứa thrombomodulin là chất khi gắn với thrombin sẽ hoạt hóa
protein C để thoái giáng và ức chế yếu tố đông máu có tên Va, VIIIa. Ngoài ra
nó cũng tổng hợp được protein S là đồng yếu tố của protein C.
-
Khi
có mặt thrombin, tế bào nội mạc cũng có thể hoạt hóa được plasminogen để khởi
động tiêu fibrin.
-
Tế
bào nội mạc cũng tổng hợp được yếu tố Von Willebrand (w-WF), yếu tố rất quan
trọng cần thiết cho quá trình dính tiểu cầu vào collagen của tổ chức dưới nội
mạc để khởi động quá trình đông máu.
2.2.2. Tổ chức dưới nội mạc:
Tổ chức này bao gồm rất nhiều thành
phần như collagen, tổ chức chun, màng nền, vi sợi, proteoglycan,
mucopolysarcarid, fibronectin…Khi thành mạch bị tổn thương, các thành phần dưới
nội mạc bị bộc lộ sẽ gây dính tiểu cầu (nhất là dính vào collagen) để hoạt hóa
quá trình cầm máu.
2.3.
Tiểu cầu:
Tiểu cầu đóng vai trò quan trọng
trong hình thành đinh cầm máu Hayem (nút trắng tiểu cầu) thông qua chức năng
dính, giải phóng và ngưng tập.
Chức năng dính của tiểu cầu vào lớp
dưới nội mạc khi thành mạch tổn thương phụ thuộc vào yếu tố Von Willebrand và
glycoprotein màng tiểu cầu. Sau khi dính tiểu cầu quá trình giải phóng nhiều
chất như ADP, serotonin, yếu tố 4 tiểu cầu….tiếp tục hoạt hóa quá trình đông
máu. Phản ứng giải phóng này bị ức chế bởi prostacyclin. Các chất mà tiểu cầu
vừa giải phóng ra như ADP và thromboxan A2 sẽ thúc đẩy tiểu cầu dính vào nhau
và khuếch đại phản ứng giải phóng để tạo một khối tiểu cầu đủ lớn có thể nút
vùng thành mạch tổn thương.
2.4.
Yếu tố Von Willebrand:
Là yếu tố được tổng hợp từ tế bào nội
mạc và mẫu tiểu cầu. Chúng lưu hành trong máu dưới dạng tách rời hoặc tạo phức
hợp gắn với yếu tố VIII đông máu (VIII:C). Yếu tố này có vai trò rất quan trọng
trong cầm máu kỳ đầu vì nó là cầu nối liên kết giữa tiểu cầu và collagen khi
thành mạch bị tổn thương tạo đinh cầm máu. Ngoài ra, vì là chất mang yếu tố
VIII nên nó cũng có vai trò trong quá trình đông máu huyết tương.
2.5.
Các yếu tố đông máu huyết tương:
Các yếu tố đông máu đã được xác định
được đặt tên bằng cách đánh số La mã theo thứ tự tìm ra, tuy nhiên về sau người
ta nhận thấy một số yếu tố không tương
ứng với một protein riêng biệt nào nên số đó đã bị bỏ đi (như III, IV, VI),
ngoài ra một số yếu tố mới phát hiện thì không đánh số nữa.
Bảng các yếu tố đông máu:
Tên theo số La mã
|
Tên thường dùng
|
Chức năng
|
Tính chất phụ thuộc vitamin K
|
I
|
Fibrinogen
|
Cơ chất đông máu
|
Không
|
II
|
Prothrombin
|
Zymogen
|
Có
|
III
|
Yếu tố tổ chức, thromboplastin
|
|
|
IV
|
Ion Canxi
|
|
|
V
|
Proaccelerin, Plasma accelerator
globulin
|
Đồng yếu tố
|
Không
|
VII
|
Proconvertin
|
Zymogen
|
Có
|
VIII
|
Yếu tố chống Hemophilie A
|
Đồng yếu tố
|
Không
|
IX
|
Yếu tố chống Hemophilie B, yếu tố
Chrismas
|
Zymogen
|
Có
|
X
|
Yếu tố Stuart
|
Zymogen
|
Có
|
XI
|
Yếu tố chống Hemophilie C, plasma
thromboplastin antecedent
|
Zymogen
|
Không
|
XII
|
Yếu tố Hageman, yếu tố tiếp xúc
|
Zymogen
|
Không
|
XIII
|
Yếu tố ổn định sợi huyết
|
Chuyển amidase
|
Không
|
Prekallikrein
|
Fletcher Factor
|
Zymogen
|
Không
|
High Molecular Weigh Kininogen
(H.M.W.K)
|
Fitzgerald Factor
|
Đồng yếu tố
|
Không
|
Các yếu tố đông máu bản chất là các
glycoprotein được phân nhóm khác nhau tùy theo chức năng nên ta có các nhóm
zymogen (dạng tiền men) hay đồng yếu tố,
hoặc có những yếu tố chỉ là cơ chất như fibrinogen.
Ion Canxi có vai trò quan trọng trong
đông máu vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các yếu tố phụ thuộc vitamin K kết
hợp với phopsholipid. Ion canxi cũng cần thiết cho một số phản ứng của một số
yếu tố không phụ thuộc vitamin K như thể hiện hoạt tính men của XIIIa, ổn định
yếu tố V và phức hệ yếu tố Willebrand và VIII:C.
Yếu tố tổ chức hay thromboplastin
ngoại sinh được sinh ra khi tổ chức dập nát, có tác dụng khởi động con đường
đông máu nội sinh. Yếu tố này không có hoạt tính men mà hoạt động như một đồng
yếu tố để hoạt hóa yếu tố VII và X.
Các yếu tố đông máu huyết tương thường
được phân chia thành 3 nhóm như sau:
2.5.1. Nhóm các yếu tố tiếp xúc:
Gồm 4 yếu tố tham gia vào giai đọan
khởi động con đường đông máu nội sinh khi máu tiếp xúc với lớp dưới nội mạc. Đó
là các yếu tố XI, XII, prekallikrein và H.M.W.K. Các yếu tố này có đặc điểm chung là bền vững, ổn định tốt trong
huyết tương lưu trữ, không phụ thuộc vitamin K khi tổng hợp và không phụ thuộc
ion canxi khi hoạt hóa.
2.5.2. Nhóm các yếu tố phụ thuộc vitamin K
(hay nhóm prothrombin) :
Gồm các yếu tố II, VII, IX, X. Các
yếu tố này đều là zymogen (tiền men) của các serin protease (men hoạt động).
Đặc điểm chung là đều phụ thuộc vitamin K khi tổng hợp và cần có ion canxi khi
hoạt hóa. Khi lưu hành bình thường chúng không có hoạt tính enzyme nhưng có thể
bị biến thành serin protease khi phân cắt lựa chọn một hoặc hai dây nối peptid.
Các yếu tố trong nhóm này không bị tiêu thụ trong quá trình đông máu nên chúng
sẽ có mặt trong huyết thanh (trừ yếu tố II) và chúng ổn định trong huyết tương
lưu trữ. Khi cơ thể thiếu vitamin K thì gan chỉ tổng hợp ra tiền chất của các
yếu tố trên, các tiền chất có hoạt tính sinh học đông máu rất thấp và đôi khi
còn có hoạt tính ức chế đông máu, được gọi chung là PIVKA (proteins induced by
vitamin K absence or antagonists).
2.5.3. Nhóm fibrinogen:
Gồm các yếu tố I,V, VIII, XIII. Các
yếu tố này đều chịu tác động qua lại của thrombin. Đặc điểm chung của các yếu
tố này là bị tiêu thụ trong quá trình đông máu nên không có mặt trong huyết
thanh và nhanh bị hủy (mất hoạt tính trong huyết tương lưu trữ). Yếu tố VIII
còn có đặc điểm không lưu hành đơn độc trong huyết tương mà sau khi tổng hợp ra
chỉ thời gian ngắn (8-12 phút) là chúng sẽ gắn với yếu tố von Willebrand nhờ đó
mà đảm bảo được tính ổn định của yếu tố này.
3.
Các giai đoạn của đông cầm máu trong
cơ thể:
Quá trình đông cầm máu trong cơ thể
nhằm bịt kín chỗ tổn thương, không cho máu thoát khỏi thành mạch được phân chia
làm 3 giai đoạn chính như sau:
-
Giai
đoạn cầm máu ban đầu ( còn gọi là giai đoạn thành mạch tiểu cầu)
-
Giai
đoạn đông máu huyết tương
-
Giai
đoạn tiêu sợi huyết
3.1.
Giai đoạn cầm máu ban đầu:
Khi thành mạch bị tổn thương, quá
trình cầm máu lập tức xảy ra. Đầu tiên là phản xạ co mạch dưới tác động của các
cơ chế thần kinh (phản xạ tự vệ) và thể dịch (dưới tác động của angiotensin II
do tế bào nội mạc phóng thích). Mạch máu khi co lại sẽ làm giảm tốc độ dòng
chảy tạo điều kiện bám dính tiểu cầu, việc này rất hiệu quả trong cầm máu ở
những mạch máu nhỏ và mao mạch.
Thành mạch bị tổn thương cũng làm bộc
lộ lớp dưới nội mạc (collagen, sợi chun….) tạo nên bề mặt không trơn nhẵn và có
lực hút tĩnh điện tạo điều kiện cho tiểu cầu bám dính dễ dàng. Tuy nhiên để
tiểu cầu có thể bám dính được tối đa cần phải có vai trò của yếu tố von
Willebrand và các yếu tố GPIb, GPIIb-IIIa nằm trên màng tiểu cầu. Sự kết dính
tiểu cầu xảy ra gần như ngay tức khắc khi thành mạch vừa tổn thương, không phụ
thuộc vào canxi hay các yếu tố đông máu huyết tương khác.
Tiểu cầu sau khi bị dính sẽ bị hoạt
hóa (thay đổi hình dạng) và giải phóng ra một loạt các sản phẩm như ADP,
serotonin, epinerphrin và các dẫn xuất của prostaglandin, đặc biệt quan trọng
là thromboxan A2. Các sản phẩm sẽ có tác dụng khuếch đại quá trình ngưng tập
tiểu cầu. Các tiểu cầu dính vào nhau tạo nên nút tiểu cầu, nút này lớn lên nhanh chóng và chỉ sau một vài phút đã có thể
bịt kín vùng mạch máu (nhỏ) bị tổn thương. Nút tiểu cầu này có tên là nút trắng
tiểu cầu hay đinh cầm máu Hayem. Sau khi hình thành, ngoài chức năng lấp mạch,
nút trắng tiểu cầu còn làm bộc lộ yếu tố 3 tiểu cầu (một phospholipid bề mặt
tiểu cầu) có khả năng thúc đẩy quá trình đông máu. Với những vết thương lớn,
đây chỉ là khởi đầu cho quá trình hình thành cục đông bằng con đường đông máu
huyết tương.
Sơ đồ 1. giai đoạn cầm máu ban đầu:
Thành mạch tổn thương
Tiểu cầu
Dính vào collagen (lớp dưới nội mạc)
Phóng thích các yếu tố tiểu cầu
(ADP,thromboxan A2…)
Kết dính tiểu cầu có hồi phục→yếu tố tiểu cầu
Thrombin tiểu cầu
Kết dính tiểu cầu không hồi phục
Thrombin huyết tương
Đinh cầm máu Hayem (nút trắng tiểu
cầu)
3.2.
Giai đoạn đông máu huyết tương:
Quá trình đông máu huyết tương có thể
được phát động bằng hai con đường: nội sinh do máu tiếp xúc với bề mặt mang
điện tích âm (trong cơ thể là lớp dưới nội mạc, trong thực nghiệm là các bề mặt
thủy tinh hay kaolin) hoặc ngoại sinh nhờ vai trò của yếu tố tổ chức. Kết quả
khởi động hai con đường đều mang lại kết quả tạo phức hệ prothrombinase làm
nhiệm vụ chuyển prothrombin thành thrombin-chất có vai trò rất lớn trong đông
cầm máu. Fibrinogen dưới tác dụng của thrombin sẽ tạo ra lưới fibrin giam giữ
tiểu cầu và các thành phần khác của máu tạo nên cục máu ổn định vững chắc có đủ
khả năng cầm máu.
Các yếu tố đông máu huyết tương sẽ bị
hoạt hóa theo kiểu dây chuyền và được ví như dòng thác phản ứng men do hầu hết
các yếu tố đông máu đều là serinprotease nghĩa là có khả năng thủy phân các dây
peptid. Ví dụ chỉ cần một lượng rất nhỏ (1 phân tử gam) yếu tố XI hoạt hóa thì
đã có thể thủy phân để hoạt hóa liên tục các yếu tố IX, X, prothrombin để tạo
ra tới 2´108 phân tử gam fibrin.
Người ta chia quá trình đông máu
huyết tương thành 3 thời kỳ:
-
Thời
kỳ hình thành throboplastin hoạt hóa (phức hệ prothrombinase) bằng đường nội
sinh và ngoại sinh.
-
Thời
kỳ hình thành thrombin
-
Thời
kỳ hình thành fibrin.
Sự phân chia này chỉ mang tính tương
đối vì trên thực tế các giai đoạn của quá trình đông máu đan xen với nhau một
cách phức tạp, chính vì vậy mà rối loạn đông máu vẫn là vấn đề rất phức tạp.
3.2.1. Thời kỳ hình thành throboplastin hoạt
hóa:
a. Con đường đông máu nội sinh:
Khi thành mạch tổn thương được bộc
lộ, nhóm các yếu tố tiếp xúc trong máu (XII, XI, prekallikrein và H.M.W.K) gặp
và cố định lên bề mặt điện tích âm của lớp dưới nội mạc do đó làm hoạt hóa yếu
tố IX thành IXa. IXa được hình thành cùng với sự có mặt của ion canxi, đồng yếu
tố VIII:C và phospholipid của tiểu cầu tạo thành phức hệ prothrombinase hay
thromboplastin nội sinh. Ngoài ra IXa còn có khả năng hoạt hóa yếu tố VII nên
đây là đầu mối tạo liên hệ giữa hai con đường nội sinh và ngoại sinh.
b. Con đường đông máu ngoại sinh:
Con đường này được khởi phát khi các
lipoprotein từ tổ chức bị tổn thương (yếu tố tổ chức-TF) hoạt hóa yếu tố VII
thành VIIa. Quá trình này được khuếch đại nhờ chính phức hợp TF-VIIa. Yếu tố
VIIa và phức hợp TF-VIIa cùng sự có mặt của Ca++ có thể xúc tác hoạt hóa trực
tiếp yếu tố X và TF cũng là đồng yếu tố gia tốc cho sự hoạt hóa này.
3.2.2. Thời kỳ hình thành thrombin:
Thromboplastin hoạt hóa (hay là phức
hệ prothrombinase) được hình thành từ hai con đường nội sinh và ngoại sinh sẽ
có khả năng chuyển prothrombin thành thrombin.
Thrombin là yếu tố có vai trò rất
quan trọng trong sinh lý đông cầm máu cũng như các tình trạng bệnh lý. Thrombin
là chìa khóa cho sự hình thành fibrin bằng cách chuyển fibrinogen thành fibrin
và hoạt hóa yếu tố XIII giúp ổn định sợi huyết. Thrombin mở rộng đông máu huyết
tương bằng cách hoạt hóa VIII:C và V làm gia tốc phản ứng hình thành Xa nên
tăng hoạt hóa prothrombin. Thrombin cũng có thể làm tăng tốc độ hình thành
chính mình. Thrombin là chất kích tập tiểu cầu mạnh vì nó cố định lên bề mặt
bạch cầu làm hoạt hóa chúng. Ngoài ra thrombin còn có thể thúc đẩy chuyển
plasminogen thành plasmin vì khi thrombin gắn vào tế bào nội mạc thì kích thích
giải phóng t-PA (tissue plasminogen activator). Nó cũng góp phần thúc đẩy kích
thích tăng sinh các tế bào tơ (fibroblast). Tuy nhiên thrombin lại là chất có
thể giới hạn sự lan rộng của đông máu khi hạn chế hoạt động của chính mình
thông qua hoạt hóa protein C.
3.2.3. Thời kỳ hình thành fibrin:
Thrombin được tạo ra sẽ thủy phân
fibrinogen thành fibrin monomer (fibrinopeptid A và B). Fibrin monomer trùng
hợp với nhau thành fibrin polymer, đây là mối liên kết không bền vững, có thể
chuyển đổi hai chiều. Yếu tố XIIIa được tạo ra dưới tác động của thrombin sẽ giúp fibrin polymer
trở nên ổn định và tạo ra mối liên kết không hồi phục của fibrin với các các
protein khác như fibronectin, α2antiplasmin… nên cục đông hình thành vững chắc hơn. Cục sợi huyết hình
thành là khối gel hóa bao gồm lưới fibrin (đường kính khoảng 1mm) trong
đó giam giữ hồng cầu, bạch cầu và đặc biệt là tiểu cầu. Sau đó cục máu sẽ co
lại nhờ một protein tiểu cầu tên là actomyosin.
Sơ đồ 2. Quá trình đông máu huyết tương.
3.3.
Giai đoạn tiêu sợi huyết:
Sau khi cục đông đã hoàn thành nhiệm
vụ lấp kín chỗ tổn thương, cơ thể sẽ tíêp tục quá trình sẹo hóa và sau đó cục
sợi huyết sẽ được tiêu đi để trả lại sự thông thoáng cho mạch máu đảm bảo nuôi
dưỡng tổ chức phía dưới chỗ tổn thương. Quá trình tiêu cục đông là nhờ hệ tiêu
sợi huyết. Plasminogen là một b globulin tồn tại trong máu dưới dạng
tiền men, khi hoạt hóa tạo thành plasmin có tác dụng tiêu protein. Plasminogen
được hoạt hóa nhờ t-PA tiết ra từ tế bào nội mạc. Plasmin có thể tiêu
fibrinogen, fibrin, yếu tố V, VIII và nhiều protein khác. Plasmin bị ức chế bởi
a2 antiplasmin và a2 macroglobulin, còn t-PA thì bị ức
chế bởi PAI 1.
Ho¹t ho¸ néi sinh
XIIa
Kallikrein
Plasminogen
|
Ho¹t ho¸ ngo¹i sinh
tPA
Urokinase
Plasmin Fibrin
M¶nh X
|
Streptokinase
|
M¶nh
Y + D
M¶nh
E +D
|
|
|
|
Sơ đồ 3. Quá trình tiêu sợi huyết
4.
Các chất ức chế đông máu sinh lý:
Quá trình đông cầm máu trong cơ thể
là phản xạ tự vệ nhằm cầm máu ở vết thương thành mạch nhưng lại có thể gây hậu
quả tắc mạch, vì vậy quá trình này cần phải có sự kiểm soát và điều hòa của cơ
thể. Một số yếu tố đông máu sẽ được pha loãng và bị gan đào thải, mặt khác sẽ
có các chất ức chế làm bất hoạt các yếu tố đã được hoạt hóa hoặc làm thoái hóa
các đồng yếu tố. Các chất ức chế sinh lý này nếu thiếu hụt sẽ gây ra hiện tượng
tắc mạch.
Các chất ức chế đông máu được chia
làm hai nhóm tùy theo hoạt động cảu chúng.
-
Nhóm
1: gồm các chất ức chế serin protease, chúng tạo thành phức hợp với các yếu tố
đông máu. Các chất này là: anti thrombin III (ATIII), đồng yếu tố II của heparin,
α macroglobulin, α 1 anti trypsin và chất ức chế C1S. Nhóm này có
khả năng ức chế thrombin, kallikrein, XIa, XIIa
-
Nhóm 2: gồm 2 protein huyết tương là
protein C và protein S và một protein màng tên là thrombomodulin. Hệ thống men
này có thể làm thoái hóa 2 đồng yếu tố của phản ứng men là yếu tố Va và VIII:C.
Protein C có thể được hoạt hóa bằng chính thrombin.
Các
chất ức chế đông máu sinh lý hầu hết được tổng hợp ở tế bào gan, trừ
thrombomodulin là do tế bào nội mạc tổng hợp nên.
|